Cơ chế quản lí, mạng lưới

Hệ thống giáo dục suốt đời Hàn Quốc nói chung, các cơ sở giáo dục suốt đời và các Trung tâm học tập suốt đời nói riêng vận hành trong một thể chế quản lí chặt chẽ từ trung ương tới địa phương. Chính quyền trung ương thiết lập một khung chính sách cơ bản và thiết lập các hệ thống liên quan, sau đó chính quyền địa phương thực hiện các nhiệm vụ chính sách phù hợp với mục tiêu theo từng cấp độ và phù hợp với bối cảnh từng địa phương.

Bộ GD & ĐT xây dựng tầm nhìn quốc gia cho việc HTSĐ trong khi các bộ khác hỗ trợ tài chính và thúc đẩy các chương trình giáo dục suốt đời, chịu sự tác động của các luật liên quan. Đặc biệt, có các cơ quan chuyên môn cung cấp các hoạt động xúc tiến học tập suốt đời với sự hợp tác của các tổ chức hành chính: NILE (cấp trung ương), các cơ sở suốt đời của thành phố /tỉnh và các cơ sở giáo dục suốt đời ở cấp địa phương (cấp huyện, cộng đồng dân cư). Ngoài ra, các cơ quan tư vấn ở các cấp hành chính khác nhau được thiết lập với mục đích để thảo luận và phối hợp về các vấn đề liên quan đến tầm nhìn, chính sách hoặc thực thi chiến lược giáo dục suốt đời.

Tại Hàn Quốc, hầu hết các nhà cung cấp học tập suốt đời là các loại hình tổ chức giáo dục suốt đời, trong đó có các trường học chính quy từ tiểu học tới đại học, các tổ chức phi chính phủ và các bên tư nhân khác. Sự kết hợp của các bên liên quan này đã tạo nên một mạng lưới kết nối chặt chẽ, hỗ trợ cho TTHTCĐ một cách tối đa.

Các Trung tâm HTSĐ tại Hàn Quốc có nhiều mạng lưới và quan hệ đối tác với các tổ chức khác trong cộng đồng như trường học, thư viện và viện bảo tàng. Trong số đó, các mối quan hệ đối tác giữa các TTHTCĐ với các trường học có thể là một trong những ví dụ cho sự hợp tác giữa các trường học và học tập suốt đời. Ở một địa phương nhất định, các trường học phổ thông được Bộ Giáo dục chỉ định trở thành các mô hình “trường học GDSĐ” trong các tỉnh/thành phố (mỗi tỉnh/thành phố một trường). Điều này góp phần tăng cường các điều kiện thuận lợi cho việc học tập của người dân tại các TTHTCĐ, thông qua một cơ chế mở, linh hoạt, tận dụng cơ sở vật chất, nguồn nhân lực và phương tiện có sẵn của trường phổ thông.

Hiệp hội Giáo dục Cộng đồng Hàn Quốc (KACE) đã phối hợp với các trường để lập kế hoạch và thực hiện các chương trình cho giáo dục phụ huynh, cho cộng đồng dân cư. Ngoài ra, Bộ Giáo dục (MOE) và các văn phòng giáo dục địa phương đã làm việc để sử dụng các trường học địa phương như các TTHTCĐ, đặc biệt là ở các vùng nông thôn (Jo, 2012). Ngoài ra, ở Hàn Quốc cũng có khá nhiều trường đại học thành lập các trung tâm HTSĐ do chính nhà trường xây dựng và vận hành. Thực tế này là kết quả có được từ sự kết hợp nhiều yếu tố, trong đó cần khẳng định rằng các trường đại học từ xưa đến nay được xem như tác nhân quan trọng đóng góp vào sự phát triển của cộng đồng vùng; quá trình tương tác giữa trường đại học với cộng đồng dân cư cũng là một tiêu chí đánh giá hiệu quả của trường đó.

Mặc dù không phải là những cơ sở giáo dục chính thức cung cấp dịch vụ về giáo dục người lớn, song các tổ chức phi chính phủ cũng là những đơn vị tham gia tích cực trong việc cung cấp một số chương trình giáo dục người lớn, HTSĐ ngắn hoặc trung hạn tới nhiều đối tượng hưởng lợi khác nhau ở cơ sở GDSĐ nói chung và TTHTCĐ nói riêng. Tùy thuộc vào lĩnh vực và mục tiêu ưu tiên, các tổ chức phi chính phủ có thể cung cấp tới người học hoặc người dân tại các địa bàn dự án của mình những chương trình tập huấn, phổ biến kiến thức liên quan tới nhiều lĩnh vực đa dạng như môi trường, sức khỏe, dân số, giáo dục đời sống gia đình, giáo dục đa văn hóa.

Với những nỗ lực của chính phủ để phát triển các nhà GDSĐ hiện nay các nhà GDSĐ làm việc tại rất nhiều cơ sở khác nhau như các trung tâm thông tin về GDSĐ, trung tâm GDSĐ, các thư viện, trung tâm văn hóa liên kết với các công ty truyền thông, các trung tâm GDSĐ liên kết với các trường cao đẳng và trung tâm dạy nghề.

Nhân lực

Để đảm bảo chất lượng dịch vụ, các quy định về nhân sự được ban hành để mở đường cho sự hỗ trợ quản lý và giảng dạy ở cấp quốc gia. Theo Luật GDSĐ, ít nhất mỗi trung tâm phải có một người quản lý được đào tạo chuyên nghiệp về GDSĐ. Điều này đảm bảo cho hoạt động của Trung tâm chuyên nghiệp, bài bản, linh hoạt, nhưng vẫn phù hợp với các nhóm đối tượng người lớn và có sự kết nối chặt chẽ với chủ trương, chính sách của quốc gia.

Tuy nhiên, đội ngũ nhân lực được đào tạo chuyên nghiệp này vẫn chưa đủ đáp ứng cho nhu cầu của các cơ sở GDSĐ và đặc biệt là các TTHTCĐ. Số lượng GV/hướng dẫn viên chính thức làm việc toàn thời gian là rất nhỏ với mức lương khiêm tốn. Đa số nhân lực đa số họ là các sinh viên đại học làm việc tình nguyện, nhiều sinh viên không nhận thù lao. Do vậy, việc huy động nguồn nhân lực từ các trường phổ thông, đại học, viên nghiên cứu, các tổ chức tư nhân khác là một giải pháp quan trọng để giải quyết tình trạng thiếu hụt về chất lượng và số lượng các GV/hướng dẫn viên trong các TTHTCĐ. Trong thời gian gần đây, các kế hoạch, chính sách về đội ngũ GV/hướng dẫn viên đã thể hiện những nỗ lực của chính phủ Hàn Quốc theo hướng nâng cao tính chuyên nghiệp, chất lượng giảng dạy và vị thế xã hội của họ.

Hàn Quốc cung cấp chứng nhận quốc gia về GDSĐ (The national certificate of lifelong educator) cho những người làm việc trong lĩnh vực GDSĐ. Hiện nay, các nhà GDSĐ (lifelong educator) và các giảng viên GDSĐ (lecturers of lifelong education) hoạt động và làm việc với những chức năng riêng biệt. Các nhà GDSĐ là những người chuyên nghiên cứu, phát triển các chương trình về GDSĐ cũng như trong việc lập kế hoạch và điều hành các chương trình GDSĐ. Trong khi đó, các giảng viên GDSĐ chuyên về giảng dạy, có năng lực chuyên môn về các môn học, họ cung cấp các bài giảng cho các công ty, tổ chức công cộng và tư nhân về HTSĐ. Đây là đội ngũ nhân lực sẽ hỗ trợ trực tiếp và gián tiếp cho các hoạt động của các TTHTCĐ.

Tài chính

Hàn Quốc phân bổ khoảng 25% chi tiêu chính phủ cho giáo dục, số tiền được phân bổ cho học cả đời trong năm 2015 đạt 37,709 triệu won (khoảng 32,2 triệu USD), chiếm 0,39% tổng ngân sách hoạt động của Bộ. được một năm. Điều này có nghĩa là hơn 99,5% ngân sách giáo dục được đầu tư vào lĩnh vực giáo dục chính thức (tiểu học, trung học và cao hơn), ngay cả khi dân số trong độ tuổi đi học nhanh chóng giảm do tỷ suất sinh thấp trên toàn quốc (Romee Lee and Jinhee Kim, 2016).

Hàn Quốc quy định trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc thúc đẩy và tài trợ cho việc học tập suốt đời tại địa phương, trong khi chính quyền trung ương duy trì vai trò của nhà đầu tư tài trợ cho việc học suốt đời. Những thiếu hụt trong ngân sách của chính phủ thường được bổ sung bằng các kế hoạch tài trợ sáng tạo huy động nguồn lực từ khu vực tư nhân, chẳng hạn như Quỹ Bảo hiểm Việc làm. Được ra đời vào năm 1995, Quỹ Bảo hiểm Việc làm là một hệ thống bảo hiểm xã hội giúp ngăn ngừa thất nghiệp và tạo điều kiện thuận lợi cho việc tái gia nhập thị trường lao động bằng cách phát triển năng lực nghề nghiệp của người lao động thông qua việc cấp kinh phí cho các chương trình nâng cao kỹ năng nghề nghiệp và trợ cấp thất nghiệp. Thẻ học tập ngày mai (Tomorrow Learning Card) (còn được gọi là Hệ thống tài khoản phát triển dạy nghề) đã được đưa ra vào năm 2006 cũng nằm trong hệ thống Quỹ bảo hiểm việc làm. Hàn Quốc đã tạo ra các kế hoạch tài trợ thay thế với sự tham gia của khu vực tư nhân là 40,4% trong tổng chi tiêu cho các tổ chức giáo dục đến từ các nguồn tư nhân, bao gồm cả các gia đình riêng lẻ. Con số này cao hơn nhiều so với mức trung bình của OECD là 16,5% (Yang & Yorozu, 2015).

Tác giả: Nguyễn Minh Tuấn- Nguyễn Hoài Thu- vũ Thị Phương Thảo – Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam