Cơ chế quản lý, mạng lưới
Ở Nhật Bản, MEXT là cơ quan chính phủ chịu trách nhiệm về giáo dục suốt đời (GDSĐ). Bên cạnh đó, các cơ quan chính quyền địa phương, các tổ chức cá nhân khác cũng được khuyến khích tham gia vào giáo dục và chia sẻ trách nhiệm về GDSĐ. MEXT sẽ phối hợp với các bộ và các tổ chức khác để thúc đẩy và phát triển GDSĐ ở toàn quốc gia.
Các Kominkan ở Nhật Bản hình thành, phát triển và hoạt động ban đầu tương tự như tổ chức các TTHTCĐ của Việt Nam. Kominkan phát triển rộng khắp, đã có vị trí, vai trò trong xã hội Nhật Bản. Tại Kominkan, người dân được học nhiều chương trình văn hóa khác nhau, đồng thời còn có các chương trình thể dục, thể thao và giải trí.
Kominkan thành lập vào năm 1949 đã đực thể chế trong Bộ Luật Giáo dục xã hội và được coi là bộ phận của hệ thống giáo dục người lớn. Năm 2006, có 18.000 Kominkan hoạt động dưới sự bảo trợ của Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương; ngoài ra, còn có 76.883 Kominkan tự quản do người dân tự thành lập ở các vùng nông thôn với quy mô nhỏ hơn. Ở Nhật Bản, các Kominkan đóng vai trò là nơi hội họp, là địa điểm học tập, nơi liên kết các cá nhân hoặc các nhóm với nhau, nơi người dân có thể đến để phát triển bản thân, phát triển cộng đồng và tìm hiểu khám phá về cộng đồng. Từ năm 1959, Chính phủ Nhật đã có văn bản quy định về Tiêu chuẩn thành lập và hoạt động của Kominkan.

Sơ đồ hệ thống quản lý các TTHTCĐ (Kominkan) ở Nhật Bản
Các Kominkan hoạt động hiệu quả phần lớn do khung pháp lý chặt chẽ của Nhật Bản quy định rõ ràng và phân cấp mạnh mẽ. Mục tiêu học tập dựa vào cộng đống, dựa trên nguyện vọng của cộng đồng và cho tất cả mọi người tham gia, từ đó tất cả các ban ngành hợp tác cùng với các tổ chức địa phương như trường học, tổ chức phi chính phủ và viện bảo tàng hỗ trợ cùng nhau thực hiện các nhiệm vụ cộng đồng.
Nhân lực
Hầu hết các Kominkan đều có lớp học, nơi hội họp, phòng đọc, nhà bếp, phòng truyền thống với thảm tatami, phòng trà đạo, nơi giữ trẻ, phòng nghe nhìn và các trang thiết bị thể thao…. Sự gia tăng về số lượng Kominkan tại Nhật Bản tỷ lệ thuận với sự gia tăng số lượng nhân viên công tác trong giáo dục xã hội bao gồm các vị trí khác nhau: chuyên gia, giám đốc Kominkan, điều phối viên giáo dục xã hội,…
Nguồn nhân lực từ các tình nguyện viên là một trụ cột làm cho hệ thống Kominkan hoạt động hiệu quả. Theo số liệu thống kê của MEXT, tổng số lượng người sử dụng Kominkan năm 2001 là 238,289 người; năm 2004 là 244,349 người; năm 2007 là 256,614 người.
Tài chính
Kominkan được xem là chìa khóa thành công của Nhật Bản sau thế chiến thứ hai khi vận động cải thiện đời sống, hình thành nên nền tảng xã hội thích ứng với sự biến đổi của kinh tế.
Việc hỗ trợ kinh phí hoạt động cho các Kominkan là kết quả của việc ra đời Đạo luật Giáo dục xã hội. Năm 1950, MEXT đầu tư kinh phí vào Kominkan: kinh phí từ thành phố 71,4%; thu nhập từ hoạt động 11,7%; kinh phí từ tỉnh 2,9%; kinh phí khác 2%; ngân sách Nhà nước 0,2%; kinh phí từ đoàn thể 16%; kinh phí quyên góp 4,5%; kinh phí từ hội duy trì 5,7%. Các khoản chi phí cho hoạt động năm 1950: chi phí hoạt động 28,4%; chi phí hành chính 6,2%; chi phí đầu tư thiết bị 22,5%; chi phí nhân sự 23,5%, chi phí khác 19%.
Trong quá trình phát triển, sau khi đã khẳng định được vị thế và tác dụng đối với xã hội trong việc nâng cao dân trí, Kominkan được giao về cho chính quyền các địa phương tổ chức và quản lý, nhà nước hỗ trợ kinh phí, giai đoạn này cộng đồng tham gia học tập đều được miễn phí, cũng giống như cách tổ chức hoạt động của Trung tâm học tập cộng đồng của Việt Nam hiện nay. Từ năm 1989, khi chuyển sang giai đoạn mới, hoạt động của Kominkan chủ yếu mang tính dịch vụ, người tham gia học đều phải trả tiền. Trong 60 năm phát triển và hoạt động, Kominkan đã rút ra được những bài học kinh nghiệm là: muốn có đỉnh cao khoa học, công nghệ thì phải có cái gốc về dân trí của cộng đồng một cách vững chắc. Với mục tiêu ấy, Kominkan đã góp phần quyết định cho chiến lược nâng cao dân trí của Nhật Bản.
Công nghệ thông tin
Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ Nhật Bản (gọi tắt là MEXT) vận hành Hệ thống Mạng Thông tin và Giáo dục (El-Net) nhằm mở rộng cơ hội HTSĐ để người dân có thể truy cập dễ dàng vào các dịch vụ thông tin giáo dục và học tập cho mọi người bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu. Hệ thống cung cấp thông tin này được trang bị cho các cơ sở giáo dục xã hội trên toàn quốc thông qua truyền thông vệ tinh vào tháng 7/1999. Tháng 4/2008, hệ thống phân phối thông tin dựa trên Internet đã được cung cấp để đáp ứng sự thay đổi trong lĩnh vực thông tin và truyền thông trong những năm gần đây.
Các Kominkan ở Nhật Bản chiếm vị trí và vai trò quan trọng trong cộng đồng như vậy là do chính phủ Nhật Bản đã quy định rõ khi xây dựng Luật Giáo dục cơ bản và Luật Giáo dục xã hội; chính vì vậy Kominkan trở thành một bộ phận chính thức của một hệ thống lớn hơn. Chính phủ đặt tiêu chuẩn thành lập và quản lý các Kominkan và cấp vốn cho việc xây dựng. Chính phủ thiết lập một hệ thống chứng nhận chính thức cho các chuyên gia về giáo dục xã hội; hệ thống này có quan hệ mật thiết với các nghĩa cụ làm việc ở Kominkan. Chính phủ khuyến khích sự phát triển của các tổ chức Kominkan làm cơ sở cho các hoạt động của họ.
Trong xu hướng thế giới về giáo dục suốt đời và giáo dục cho người lớn, các mối quan tâm đối với các cơ sở giáo dục cộng đồng cũng tăng cao và lan rộng, làm xuất hiện nhiều cơ sở hạ tầng cho giáo dục cộng đồng của nhiều quốc gia. Trong nhiều trường hợp, Kominkan được đưa ra làm mốc so sánh với TTHTCD tại nhiều nước khác.
Tác giả: Nguyễn Minh Tuấn- Nguyễn Hoài Thu- vũ Thị Phương Thảo – Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam